Tác giả: Azim F. Shariff & Kathleen D. Vohs
Duy Đoàn chuyển ngữ
Vào tháng 7 năm 2008, Brian Thomas, một công nhân ngành thép đã nghỉ hưu, cùng cô vợ Christine lái chiếc xe dã ngoại đến một ngôi làng nhỏ ven biển ở xứ Wales. Cảm thấy phiền nhiễu từ đám đàn ông đang phô diễn ầm ĩ trên mấy chiếc xe máy, hai vợ chồng này chuyển tới bãi đậu xe của một quán trọ gần đó. Sau đó vào buổi đêm, Thomas mơ thấy một trong những tay cưỡi xe máy kia đột nhập vào xe. Khi ngủ, anh nhầm vợ mình với tay cưỡi xe máy tưởng tượng kia và bóp cổ cô ấy đến chết. Anh ta đã kể câu chuyện này như thế.
Năm sau đó, bồi thẩm đoàn phải quyết định liệu Thomas có phạm tội sát nhân không. Bồi thẩm đoàn biết được rằng anh đã mắc phải chứng mộng du từ thuở nhỏ. Một bác sĩ tâm thần lão luyện giải thích rằng Thomas không nhận thức được mình đang làm gì khi bóp cổ vợ mình và anh ta không chọn cách tấn công cô ấy bằng ý thức của mình. Thomas sau đó được tự do.
Những vụ như thế buộc người ta phải xem xét việc có ý chí tự do có ý nghĩa gì. Trong lúc mộng du, bộ não rõ ràng có thể chỉ thị cho hành động của người ta mà không cần đến sự hợp tác hoàn toàn của ý thức. Gần đây, càng lúc càng nhiều triết gia và những nhà khoa học thần kinh lập luận – dựa trên sự hiểu biết hiện thời về bộ não con người – rằng ở chừng mực nào đó thì hết thảy chúng ta đều mộng du ở mọi thời điểm. Thay vì làm chủ cuộc sống theo ý hướng bản thân, chúng ta hoàn toàn bị đưa đẩy bởi những sự kiện quá khứ và những mưu đồ của tâm trí vô thức diễn ra bên dưới. Thậm chí khi chúng ta tỉnh thức hoàn toàn, thì ý chí tự do chỉ là một ảo tưởng.
Các triết gia với quan điểm này đã lập luận rằng toàn bộ các sinh vật đều bị ràng buộc bởi các quy luật vật lí của một vũ trụ mà trong đó mọi hành động đều là kết quả của những sự kiện trước. Con người là những sinh vật. Do đó, hành vi con người là kết quả từ một chuỗi nhân quả phức hợp vốn dĩ vượt khỏi tầm kiểm soát của ta hoàn toàn. Vũ trụ này đơn giản là không cho phép có ý chí tự do. Những nghiên cứu khoa học thần kinh gần đây đã tiếp thêm nhiên liệu cho quan niệm đó bằng cách đề xuất ý rằng cái trải nghiệm của sự chọn lựa có ý thức là kết quả của những tiến trình xử lí não bộ bên dưới vốn là thứ sinh ra hành động con người, chứ không phải là nguyên nhân của những tiến trình đó. Bộ não chúng ta quyết định mọi thứ mình làm mà không cần “ta” giúp – chỉ là cảm giác giống như ta làm được vậy mà thôi.
Tất nhiên không phải ai cũng đồng ý, và cuộc tranh luận về sự tồn tại của ý chí tự do sẽ tiếp tục trào lên. Tuy nhiên, chúng tôi cảm thấy hiếu kì về một vấn đề liên quan cũng có tầm quan trọng tương đương: Chuyện gì xảy đến khi niềm tin của con người vào ý chí tự do – cho dù có được biện minh hay không – lại bị lung lay? Liệu một xã hội thời hậu ý chí tự do (post-free will), hoặc nói đúng hơn là một xã hội sau cái thời người ta có niềm tin vào ý chí tự do, thì sẽ trông ra sao? Nghiên cứu của chúng tôi trong vấn đề này đã đưa ra những manh mối cho một câu trả lời, một số làm người ta thấy bất an. Cụ thể, chúng tôi thấy được những dấu hiệu cho biết nếu thiếu đi niềm tin vào ý chí tự do thì kết cuộc là cấu trúc xã hội sẽ bị phá huỷ tan tành. Continue reading