Ludwig Wittgenstein – Những câu văn trích tuyển

Ludwig Wittgenstein (1889–1951) theo công luận là một trong ba triết gia quan trọng nhất của thế kỉ 20 vừa qua. Hai triết gia kia là: Martin Heidegger (1889–1976) và Jacques Derrida (1930–2004). Tác phẩm của ba triết gia này rất độc đáo và có ảnh hưởng cực lớn trong mọi địa hạt cho tới nay. Wittgenstein là triết gia chuyên về luận lí toán học và triết học về ngôn ngữ. Cũng theo công luận hễ ngôn ngữ nào và quốc gia nào chưa dịch thuật và nghiên cứu về ba triết gia này thì chưa bước vào triết học đương đại cùng với cả thế giới. Đặc biệt có ba cái mốc.

Với Wittgenstein là tác phẩm Tractatus Logico-Philosophicus, chỉ vỏn vẹn có 75 trang, công bố đầu tiên bằng tiếng Đức năm 1918.

Tác phẩm trụ cột của Heidegger là Sein und Zeit (Hữu thể và Thời gian) (1927) bằng tiếng Đức gồm 2 phần, phần đầu đăng tải trên Chuyên san Biên niên về Triết học và nghiên cứu Hiện tượng luận do vị thầy của Heidegger là Edmund Husserl chủ biên. Phần sau cho tới khi tác giả mất không hề được xuất bản.

Derrida là một tác giả hết sức phồn thực nhưng năm xuất hiện kì diệu của ông là 1967 khi cho ra mắt cùng loạt 3 tác phẩm đầu tiên: đó là De la grammatologie (Luận về văn tự học), La Voix et le Phénomène (Tiếng nói và Hiện tượng), L’Écriture et la différence (Văn tự và dị biệt).

Tác phẩm của cả ba triết gia này đều vô cùng súc tích, độc đáo và khó khăn đối với người đọc, kể cả các triết gia, vì tính chất cách mạng, sáng tạo, giải cấu trúc và phê phán mấy thiên niên kỉ triết học của phương Tây, đặc biệt là về bản thể luận tức siêu hình học, tri thức luận, nền tảng của luận lí và triết học về ngôn ngữ.

Năm nay 2018, đúng 100 năm sau khi tác phẩm Tractatus Logico-Philosophicus ra đời, công chúng Việt nam đã có bản dịch đầu tiên được xuất bản của dịch giả Trần Đình Thắng do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Côngti sách Domino cùng liên kết xuất bản và phát hành.

Để chào mừng sự kiện này và cũng để thân thiện với người đọc, chúng tôi chọn trên mạng Goodreads 307 câu văn trích tuyển đặc sắc của Wittgenstein, có in kèm cả bản tiếng Anh để mọi người tham khảo.

  

120 câu văn trích tuyển của Ludwig Wittgenstein đăng tải trên mạng Goodreads

 

Câu 1–30

  1. “A serious and good philosophical work could be written consisting entirely of jokes.”
    “Một tác phẩm triết học nghiêm túc và tốt có thể được viết gồm toàn những truyện cười.”
  2. “The limits of my language means the limits of my world.”
    “Những giới hạn của ngôn ngữ của tôi có nghĩa là những giới hạn của thế giới của tôi.”
  3. “I don’t know why we are here, but I’m pretty sure that it is not in order to enjoy ourselves.”
    “Tôi không biết tại sao chúng ta ở đây, nhưng tôi khá chắc chắn rằng nó không phải để chúng ta tự sướng.”
  4. “Whereof one cannot speak, thereof one must be silent.”
    “Cái gì người ta không thể nói về, cái đó người ta phải im lặng về nó.”
  5. “Hell isn’t other people. Hell is yourself.”
    “Địa ngục không phải là kẻ khác. Địa ngục là tự thân bạn.”
    [câu này để trả lời cho câu của Jean-Paul Sartre: ‘L’Enfer, c’est les autres.’ (‘Địa ngục, đó là những kẻ khác.’)]
  6. “The real question of life after death isn’t whether or not it exists, but even if it does what problem this really solves.”
    “Câu hỏi thực sự về sự sống sau cái chết không phải rằng là nó tồn tại hay không, nhưng ngay cả nếu nó quả tồn tại, điều này thực sự giải quyết vấn đề gì.”
  7. “Nothing is so difficult as not deceiving oneself.”
    “Không gì khó khăn cho bằng không tự lừa gạt bản thân.”
  8. “I am my world.”
    “Tôi là thế giới của tôi.”
  9. “If people never did silly things nothing intelligent would ever get done.”“Nếu người ta chẳng bao giờ làm những điều ngu ngốc thì chẳng có gì thông minh được làm bao giờ cả.”
  10. “Only describe, don’t explain.”“Chỉ mô tả, đừng giải thích.”
  11. “A man will be imprisoned in a room with a door that’s unlocked and opens inwards; as long as it does not occur to him to pull rather than push.”
    “Một người sẽ bị nhốt trong một căn buồng với một cửa không khoá và mở vào phía trong; chừng nào kẻ đó không nảy ra ý là kéo thay vì đẩy.”
    [trích từ tác phẩm Culture and Value (Văn hoá và giá trị)]
  12. “If we take eternity to mean not infinite temporal duration but timelessness, then eternal life belongs to those who live in the present.”
    “Nếu chúng ta coi vĩnh hằng (eternity) không có nghĩa là sự trường kì vô hạn về thời gian mà là sự vô thời (timelessness), khi ấy đời sống vĩnh hằng thuộc về những ai sống trong hiện tại.”
    [bản tiếng Anh Tractatus Logico-Philosophicus 6.4311 (Luận văn luận lí–triết học) 6.4311 của Pears và McGuinness (1961)]
  1. “Death is not an event in life: we do not live to experience death. If we take eternity to mean not infinite temporal duration but timelessness, then eternal life belongs to those who live in the present. Our life has no end in the way in which our visual field has no limits.”“Cái chết không phải là một sự cố trong đời sống: chúng ta không sống để trải nghiệm cái chết. Nếu chúng ta coi vĩnh hằng (eternity) không có nghĩa là sự trường kì vô hạn về thời gian mà là sự vô thời (timelessness), khi ấy đời sống vĩnh hằng thuộc về những ai sống trong hiện tại. Sự sống của chúng ta không có kết thúc theo cung cách trong đó thị trường của chúng ta không có giới hạn.”
  2. “I am sitting with a philosopher in the garden; he says again and again ‘I know that that’s a tree’, pointing to a tree that is near us. Someone else arrives and hears this, and I tell him: ‘This fellow isn’t insane. We are only doing philosophy.”“Tôi đang ngồi với một triết gia trong vườn; người đó nói đi nói lại ‘Tôi biết rằng kia là một cái cây’, trong lúc chỉ về một cái cây ở gần chúng tôi. Một người khác tới và nghe thấy điều này, tôi bảo người đó: ‘Bạn này không mất trí. Chúng tôi chỉ đang làm triết học.’”
    [trích từ tác phẩm On Certainty (Về sự đoan chắc)]
  3. “Don’t for heaven’s sake, be afraid of talking nonsense! But you must pay attention to your nonsense.”“Chớ sợ nói điều vô nghĩa! Nhưng bạn phải chú ý đến sự vô nghĩa của bạn.”
  4. “The problems are solved, not by giving new information, but by arranging what we have known since long.”“Những vấn đề được giải quyết, không phải bằng sự cho thông tin mới, mà bằng sự sắp xếp những gì chúng ta đã biết từ lâu.”
    [trích từ tác phẩm Philosophical Investigations (Những điều tra triết học)]
  5. “Not how the world is, but that it is, is the mystery.”“Không phải rằng thế giới tồn tại ra sao, mà rằng nó tồn tại, là sự bí nhiệm.”
  6. “Never stay up on the barren heights of cleverness, but come down into the green valleys of silliness.”“Chớ lưu lại trên những chỏm cao cằn cỗi của sự khôn khéo, nhưng hãy đi xuống vào những thung lũng xanh tươi của sự ngu ngốc.”
  7. “Philosophy is a battle against the bewitchment of our intelligence by means of language.”“Triết học là một cuộc chiến đấu chống lại sự mê hoặc của trí khôn chúng ta bằng phương tiện ngôn ngữ.”
    [trích từ tác phẩm Philosophical Investigations (Những điều tra triết học)]
  8. “We are asleep. Our Life is a dream. But we wake up sometimes, just enough to know that we are dreaming.”“Chúng ta đang ngủ. Đời sống chúng ta là một giấc mơ. Nhưng đôi khi chúng ta thức giấc, chỉ vừa đủ để biết rằng chúng ta đang mơ.”
  9. “How small a thought it takes to fill a life.”“Một tư tưởng nhỏ bé xiết bao để làm đầy một đời sống.”
  10. “If you and I are to live religious lives, it mustn’t be that we talk a lot about religion, but that our manner of life is different. It is my belief that only if you try to be helpful to other people will you in the end find your way to God.”“Nếu bạn và tôi sống đời đạo hạnh, chẳng cần phải là chúng ta trò chuyện nhiều về tông giáo nhưng là cách sống của chúng ta khác biệt. Niềm tin của tôi là chỉ nếu bạn gắng sức giúp ích cho những người khác, rốt ráo bạn mới tìm được đường lối của bạn tới Thượng đế.”
  11. “We feel that even if all possible scientific questions be answered, the problems of life have still not been touched at all.”“Chúng ta cảm nhận rằng thậm chí nếu mọi câu hỏi khoa học khả dĩ đều được trả lời, những vấn đề của sự sống vẫn còn chưa hề được chạm tới.”
  12. “To imagine a language is to imagine a form of life.”“Tưởng tượng ra một ngôn ngữ là tưởng tượng ra một hình thức của sự sống.”
  13. “I act with complete certainty. But this certainty is my own.”“Tôi hành động với sự đoan chắc trọn vẹn. Nhưng sự đoan chắc này là của riêng tôi.”
    [trích từ tác phẩm On Certainty (Về sự đoan chắc)]
  14. “If anyone is unwilling to descend into himself, because this is too painful, he will remain superficial in his writing. . . If I perform to myself, then it’s this that the style expresses. And then the style cannot be my own. If you are unwilling to know what you are, your writing is a form of deceit.”“Nếu bất cứ kẻ nào không sẵn lòng để đi xuống vào tự thân, bởi điều này quá đau đớn, kẻ đó sẽ vẫn là hời hợt trong văn viết của mình… Nếu tôi thi hành với tự thân tôi, khi ấy chính điều này văn phong biểu lộ. Và khi ấy văn phong không thể là của chính tôi. Nếu bạn không sẵn lòng biết bạn là gì, văn viết của bạn là một hình thức của sự lừa gạt.”
  15. “When we can’t think for ourselves, we can always quote”“Khi chúng ta không thể suy nghĩ cho chính mình, chúng ta luôn luôn có thể trích dẫn.”
  16. “What can be shown, cannot be said.”
    “Điều gì có thể phô bày, không thể nói lên.”
  17. “It is a dogma of the Roman Church that the existence of God can be proved by natural reason. Now this dogma would make it impossible for me to be a Roman Catholic. If I thought of God as another being like myself, outside myself, only infinitely more powerful, then I would regard it as my duty to defy him.”“Một giáo điều của Giáo hội La mã là rằng sự tồn tại của Thượng đế có thể chứng minh bằng lí lẽ tự nhiên. Bây giờ giáo điều này khiến cho tôi không thể là một người Công giáo La mã. Nếu tôi nghĩ về Thượng đế như một hữu thể khác giống như tự thân tôi, bên ngoài tự thân tôi, chỉ vô cùng quyền lực hơn, khi ấy hẳn tôi sẽ coi bổn phận của mình là thách thức ông ta.”
  18.  “At the core of all well-founded belief lies belief that is unfounded.”“Ở cốt lõi của mọi niềm tin có cơ sở tốt có nằm niềm tin không có cơ sở.”
    [trích từ tác phẩm On Certainty (Về sự đoan chắc)]

Continue reading

Scott Soames – Ngôi nhà đích thực của triết học

Nicole Bengiveno/The New York Times

Nicole Bengiveno/The New York Times

Scott Soames

Ngôi nhà đích thực của triết học

Duy Đoàn chuyển ngữ

Tất cả chúng ta đều nghe nói đến lập luận cho rằng triết học đã bị cô lập, một lĩnh vực “tháp ngà” bị cắt lìa hoàn toàn khỏi mọi hình thức còn lại trong việc truy cầu tri thức vốn có nhiệm vụ thúc đẩy tiến bộ, trong đó có toán và các ngành khoa học, cũng như khỏi những mối quan tâm thực sự thường nhật. Có nhiều lí do cho chuyện này. Trong bài tiểu luận thu hút nhiều độc giả trong mục [The Stone của New York Times] này, “Khi triết học lạc lối”, Robert Frodeman và Adam Briggle cam quyết rằng lí do nằm ở sự cơ cấu hoá của triết học trong trường đại học vào cuối thế kỉ 19 vốn tách li nó ra khỏi lĩnh vực nghiên cứu nhân văn và tự nhiên, nay là phạm vi của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.

Việc cơ cấu hoá này, theo cam quyết của hai tác giả, đã dẫn triết học đến chỗ phụ bạc mục đích trọng tâm trong việc minh giải tri thức cần thiết để sống cuộc đời cao hạnh và xứng đáng. Tôi có quan điểm khác: Triết học không bị tách li khỏi khoa học xã hội, tự nhiên hay toán học, nó cũng chẳng bỏ mặc việc nghiên cứu về cái tốt, công chính và đức hạnh, những thứ vốn chưa bao giờ là mục đích trọng tâm của triết học.

Các tác giả đó cam quyết rằng triết học đã từ bỏ mối quan hệ của mình với những lĩnh vực khác bằng cách tạo nên địa hạt được tịnh hoá của riêng mình, mà chỉ những chuyên gia được cấp chứng nhận mới có thể tiếp cận được. Thực sự là từ khoảng 1930 đến 1950, một số triết gia – đặc biệt các nhà duy nghiệm logic – đã cất tiếng cho rằng triết học có chủ đề dành riêng cho mình. Nhưng bởi lẽ vấn đề này là việc phân tích logic vốn có mục đích thống nhất tất cả khoa học, nên tính liên ngành là điều trước tiên và trọng tâm. Continue reading

Robert Frodeman & Adam Briggle – Khi triết học lạc lối

Sinh viên tại trường University of California tại Berkeley. Jim Wilson/The New York Times

Sinh viên tại trường University of California tại Berkeley. Jim Wilson/The New York Times

Robert Frodeman & Adam Briggle

Khi triết học lạc lối

Duy Đoàn chuyển ngữ

 Lịch sử triết học Tây phương có thể được trình bày theo nhiều cách. Nó có thể được kể theo thời kì – cổ đại, trung đại và hiện đại. Ta có thể chia nó thành những truyền thống đối địch (duy nghiệm đối với duy lí, phân tích đối với lục địa), hoặc thành nhiều khu vực cốt lõi khác nhau (siêu hình học, nhận thức luận, đạo đức học). Tất nhiên nó cũng có thể được nhìn qua ống kính phê phán của sự loại trừ giới tính hay chủng tộc, như một lĩnh vực gần như hoàn toàn được định hình cho và bởi đàn ông Âu châu da trắng.

Tuy thế, mặc dù các mô tả phong phú và đa dạng, tất cả chúng đều phải qua một điểm ngoặt trọng yếu: việc định vị triết học bên trong một cơ cấu hiện đại (trường đại học nghiên cứu) vào cuối thế kỉ 19. Việc cơ cấu hoá triết học đã đưa nó vào một lĩnh vực mà chỉ có thể được theo đuổi nghiêm túc trong một khung cảnh hàn lâm. Thực tế này tương ứng với một trong những thất bại trường kì của triết học đương đại.

Hãy xem thử chi tiết đơn giản này: Trước khi chuyển vào trường đại học, triết học chưa bao giờ có một chỗ ở trọng tâm. Người ta có thể tìm thấy triết gia ở mọi nơi – phụng sự ở vai trò nhà ngoại giao, sống nhờ lương hưu, cắt kính thuốc, cũng như trong một trường đại học. Sau đó, nếu họ là những nhà tư tưởng “nghiêm túc”, người ta kì vọng rằng các triết gia sẽ ngụ trong trường đại học nghiên cứu. Đi ngược lại các ý hướng của Sokrates, các triết gia trở thành chuyên gia giống như các chuyên gia trong từng ngành. Việc này xảy ra cho dù họ dạy sinh viên những phẩm tính của sự thông tuệ kiểu Sokrates, vốn nêu bật vai trò của triết gia như một người không phải chuyên gia, như một người tra vấn, một kẻ quấy rầy.

Khi đó, như nhà tư tưởng Pháp Bruno Latour hẳn sẽ nêu ra, triết học đã được “tịnh hoá” (purified) – tách biệt khỏi xã hội trong quá trình hiện đại hoá. Việc tịnh hoá này xảy ra nhằm phản ứng với ít nhất hai sự kiện. Đầu tiên là sự phát triển của khoa học tự nhiên, như một lĩnh vực nghiên cứu rõ ràng khác biệt với triết học, vào khoảng năm 1870, và sự xuất hiện của các ngành khoa học xã hội trong thập niên sau đó. Trước lúc này, giới khoa học thoải mái nghĩ mình là “triết gia tự nhiên” – những người nghiên cứu tự nhiên; và các tiền bối của giới khoa học xã hội đã nghĩ bản thân là “triết gia luân lí”. Continue reading

John Gray – Một Karl Marx đời thực

John Gray

Một Karl Marx đời thực

Duy Đoàn chuyển ngữ

Bài điểm sách cho cuốn Karl Marx: A Nineteenth-Century Life, của , Liveright, 648 trang, $35.00

Bằng nhiều cách thức, Jonathan Sperber đề xuất, Marx là “một khuôn mặt thủ cựu” với cái nhìn về tương lai được định khuôn theo những hoàn cảnh khác hoàn toàn so với bất kì hoàn cảnh nào phổ biến ngày nay:

“Quan điểm về Marx như một người đương thời có những ý tưởng định hình nên thế giới hiện đại là một quan điểm đã xong xuôi cả rồi và đến lúc cần một hiểu biết mới về ông như một khuôn mặt của một thời kì lịch sử trong quá khứ, một thời kì càng lúc càng cách xa chúng ta: thời đại của Cách mạng Pháp, của triết học Hegel, của những năm tháng đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá tại Anh và của nền kinh tế chính trị bắt nguồn từ đó.”

Mục tiêu của Sperber là trình bày Marx theo đúng con người thực sự của ông – một nhà tư tưởng thế kỉ 19 để hết tâm trí mình vào những ý tưởng và sự kiện của thời mình. Nếu bạn thấy Marx theo cách này, nhiều cuộc tranh cãi vốn đã tạo sóng gió quanh di sản của ông hồi thế kỉ trước dường như không lợi ích gì, thậm chí không liên quan gì. Nếu khẳng định Marx phần nào “chịu trách nhiệm về mặt trí thức” cho chủ nghĩa cộng sản thế kỉ 20, thì khẳng định đó có vẻ hết sức lầm lạc; nhưng chuyện tương tự cũng xảy ra đối với phe biện hộ Marx như một người theo dân chủ cấp tiến, bởi vì cả hai quan điểm đều “phóng chiếu ngược vào những tranh luận về thế kỉ 19 của những thời đại sau đó”. Continue reading

Hope Reese – Tại sao học triết? ‘Để thách thức quan điểm của bạn’

 

Hope Reese

Tại sao học triết? ‘Để thách thức quan điểm của bạn’

Phỏng vấn Rebecca Newberger Goldstein, tác giả cuốn Plato at the Googleplex: Why Philosophy Won’t Go Away

Duy Đoàn chuyển ngữ

Vào thời điểm mà những tiến bộ trong khoa học và công nghệ đã làm thay đổi nhận thức của chúng ta về bản thân con người mình xét về mặt tinh thần lẫn thế chất, thì thật dễ dàng gạt bỏ lĩnh vực triết học và cho nó là thứ quá xưa cũ. Stephen Hawking còn cả tiếng bảo rằng triết học đã chết.

Nhưng Rebecca Newberger Goldstein không cho là vậy. Goldstein, một triết gia và tiểu thuyết gia, học triết học tại trường Barnard và sau đó lấy bằng Ph.D về triết ở trường Princeton University. Bà đã viết nhiều cuốn sách, đoạt được giải MacArthur “Genius Award” vào năm 1996, và đi dạy ở nhiều trường đại học, trong đó có Barnard, Columbia, Rutgers, và Brandeis.

Cuốn sách mới vừa ra mắt của bà, Plato at the Googleplex: Why Philosophy Won’t Go Away, cung cấp cho người đọc cái nhìn sâu vào bên trong tiến trình đầy ý nghĩa – và thường vô hình – mà triết học đã tạo nên. Tôi nói chuyện với Goldstein về ý kiến của bà trong cuộc tranh luận khoa học với triết học, làm thế nào chúng ta có thể đo lường được những tiến bộ của triết học, và tại sao sự hiểu biết về triết học vẫn là điều quan trọng đối với cuộc sống chúng ta ngày nay.

Hồi còn nhỏ, bà đã bắt gặp cuốn The Story of Philosophy của Will Durant. Thế những suy nghĩ ban đầu khi đó của bà là gì?

Tôi lớn lên ở một hộ gia đình Do-thái giáo Chính thống (Orthodox Jewish) rất sùng đạo và dường như mọi người đều có quan điểm vững chắc về hết thảy những loại vấn đề lớn lao. Tôi hứng thú với chuyện làm thế nào họ biết những điều mà dường như họ có biết, hoặc họ khẳng định có biết. Đó là cái mà giờ tôi gọi là vấn đề nhận thức luận (epistemology). Tôi được phép đọc rất nhiều loại sách, và tôi chọn lấy cuốn The Story of Philosophy. Khi ấy hẳn là tôi được 11 hay 12 tuổi. Và chương về Platon… đó là trải nghiệm đầu tiên của tôi về một dạng cảm giác đê mê mang tính trí tuệ. Tôi bị lôi hẳn ra bên ngoài bản thân mình. Có nhiều thứ khi đó tôi không hiểu, nhưng có điều gì đó trừu tượng và vĩnh hằng nằm bên dưới tất thảy những hiện tượng luôn biến đổi của cõi sống này. Ông ta dùng từ “ảo ảnh” (phantasmagoria), vốn là một trong những từ tôi phải tra từ điển, và có thể đó là một trong rất ít lần tôi tiếp cận từ đó. Tôi có thể chẳng hiểu gì về những điều mình đang đọc, nhưng tôi lại bị hút vào cuốn đó. Continue reading

[Từ điển triết học Cambridge] apeiron

Duy Đoàn chuyển ngữ

Apeiron, thuật ngữ Hi-lạp nghĩa là ‘cái vô hạn’ hoặc ‘cái bất tận’, sau tiến triển thêm để biểu thị ‘cái bất định’. Anaximandros trình làng thuật ngữ này cho triết học bằng cách nói rằng nguồn của vạn vật là apeiron. Có một mối bất đồng ý kiến về việc ông ta dùng thuật ngữ này ý chỉ cái vô tận về mặt không gian, vô tận về mặt thời gian, hay bất định lượng. Có vẻ ông ta có ý dùng thuật ngữ này để chuyển tải ý nghĩa đầu tiên, nhưng hai nghĩa còn lại cùng tình cờ áp dụng được vào cái vô tận về mặt không gian. Sau Anaximandros, Anaximenēs tuyên bố không khí vô hạn chính là nguyên lí đầu tiên của mình, và Xenophanēs làm cho mặt đất phẳng mở rộng xuống dưới không có ranh giới nào, và có thể hướng ra ngoài theo bề ngang cũng không có giới hạn nào. Parmenidēs lập luận rằng “cái-tồn-tại” phải được giữ bên trong những ranh giới xác định. Nhưng môn đệ của ông Melissos một lần nữa lập luận rằng cái-tồn-tại phải vô tận – về thời gian lẫn không gian – bởi vì nó có thể vô thuỷ vô chung. Một môn đệ khác của Parmenidēs, Zenon xứ Elea, lập luận rằng nếu có nhiều bản thể, thì các nghịch lí sẽ trỗi dậy, bao gồm những hệ quả rằng các bản thể vừa hữu hạn vừa vô hạn (apeira) về mặt con số, và chúng quá nhỏ đến mức không có được kích thước và quá lớn đến mức có kích thước vô hạn. Phản bác nhất nguyên luận, Anaxagóras lập luận ủng hộ lượng bất định các nguyên tố vốn có kích thước vô hạn ở mỗi nguyên tố, và Philolaos, triết gia theo phái Pythagoras, đã lập những cái hữu hạn (perainonta) và những cái vô hạn (apeira) là những nguyên lí từ đó vạn vật được cấu thành. Các nhà nguyên tử luận Leukippos và Dēmokritos hình dung về một vũ trụ vô tận, một phần đầy (một lượng vô hạn các nguyên tử) và một phần rỗng; và trong vũ trụ này có hằng hà sa số (apeiroi) các cõi sống. Cuối cùng Aristotelēs đi đến một nhận thức trừu tượng về apeiron như là ‘cái vô hạn’, ông tuyên bố giải quyết được những nghịch lí về cái vô tận bằng cách cấp phát những lượng thực sự có thể được phân chia vô hạn về mặt tiềm năng, nhưng không về mặt hiện thực (Physics III. 4-8). Sự phát triển khái niệm apeiron đã chứng tỏ làm thế nào mà các triết gia Hi-lạp mở rộng thành những ý niệm triết học trừu tượng hơn bao giờ hết từ những quan niệm tương đối cụ thể.  Continue reading

William Egginton – Về Borges, vật lí hạt và nghịch lí của cái được tri giác

William Egginton

Về Borges, vật lí hạt và nghịch lí của cái được tri giác

Duy Đoàn chuyển ngữ

 

Năm 1927, một nhà vật lí trẻ người Đức công bố bài viết làm đảo lộn thế giới khoa học. Trước thời điểm đó, vật lí cổ điển đã cho rằng khi biết được vị trí và vận tốc hạt, thì có thể tính toán được quĩ đạo của nó trong tương lai. Werner Heisenberg chứng tỏ được hoàn cảnh đó thật sự không thể xảy ra: chúng ta không thể biết chính xác cả vị trí lẫn vận tốc hạt, và chúng ta biết cái này chính xác bao nhiêu thì lại mù mờ về cái kia bấy nhiêu. Năm năm sau, ông được trao giải Nobel Vật lí cho việc đặt ra nền tảng của vật lí lượng tử.

Khám phá này có tất cả những dấu hiệu của một cú đột phá khoa học; do đó nó có thể làm người ta ngạc nhiên khi biết rằng nguyên lí bất định đó đã được một người đồng thời với Heisenberg trực giác ra, đó là nhà thơ và nhà văn người Argentina Jorge Luis Borges, và nó đã được các triết gia tiên đoán ra từ hàng bao thế kỉ trước, thậm chí hàng thiên niên kỉ trước.

Dù Borges không bình luận gì về cuộc cách mạng trong lĩnh vực vật lí học vốn đang diễn ra trong quãng đời ông, nhưng ông quan tâm đến các nghịch lí tới mức ám ảnh, đặc biệt là những nghịch lí của triết gia Hi-lạp Zenon. Như lời ông viết trong một bài luận: “Ta hãy thừa nhận điều mà tất thảy các nhà duy tâm đều thừa nhận: đặc tính ảo giác của cõi nhân gian này. Ta hãy làm điều mà không nhà duy tâm nào từng làm: ta hãy tìm kiếm những cái phi thực, những cái xác nhận đặc tính đó. Ta sẽ tìm ra chúng, tôi tin thế, trong những bội luận của Kant và trong biện chứng của Zenon.”  Continue reading

Anthony Kenny – Lịch sử triết học Tây phương: Từ Hume đến Hegel (1)

Anthony Kenny

Lịch sử triết học Tây phương: Từ Hume đến Hegel (1)

Duy Đoàn chuyển ngữ

Hume

Chỉ một thời gian ngắn sau khi tại Dublin Berkeley đưa ra cho nhân loại biết về siêu hình học thường nghiệm của mình, thì tại Edinburgh một triết gia khác ra đời, ông này là người đẩy những nguyên lí thường nghiệm đến một cực điểm phản siêu hình học, đó là David Hume. Hume sinh năm 1711 trong một gia đình thuộc dòng dõi quí tộc Scotland. Khi còn là đứa bé con của một người mẹ sớm ở goá thì ông đã phải sống tự lập. Từ mười hai đến mười lăm tuổi ông theo học văn chương và triết học tại trường đại học Edinburgh, và như ta được biết thì lúc ấy ông đã phải lòng cả hai môn học này. Sau đó ông bắt đầu tự mình chuẩn bị mọi thứ để đi theo nghề luật, nhưng rồi sớm bỏ cuộc bởi lẽ nói như ông thì ông thấy mình có “một nỗi ác cảm không tài nào vượt qua được với bất kì mảng nào ngoại trừ việc theo đuổi lĩnh vực triết học và nền học vấn tổng quát.”

Dù vậy, ông cũng đã thử dấn thân vào sự nghiệp thương mại với một hãng sản xuất đường ở Bristol, nhưng bốn tháng làm công chức ở đó đã cho ông biết cuộc sống kinh doanh không dành cho mình. Ông quyết định sống dè sẻn bằng số tài sản thừa kế nhỏ nhoi, và đi khắp nước Pháp do cuộc sống ở vùng đô thị nơi đây không đắt đỏ. Từ năm 1734 đến 1737 ông sống ở La Flèche vùng Anjou, là nơi Descartes tiếp thu nền giáo dục ở trường đại học dòng Tên. Bằng cách tận dụng thư viện ở trường đại học, Hume đã viết tác phẩm đầu tiên, vô cùng trọng yếu, đó là cuốn Treatise of Human Nature (Khảo luận về Bản tính Con người).  Continue reading

Phỏng vấn David Bohm (F. David Peat và John Briggs)

David Bohm 1917-1992

Bài phỏng vấn David Bohm này, được F. David Peat và John Briggs thực hiện, đăng lần đầu tiên trên tạp chí Omni, tháng 1,  1987

Năm 1950 David Bohm đã viết cái mà nhiều nhà vật lí sau này xem là một quyển sách giáo khoa mẫu mực về cơ học lượng tử. Điều trớ trêu là ông chưa bao giờ chấp nhận lí thuyết vật lí ấy.Trong lịch sử khoa học ông là một người độc hành, một thành viên của nhóm nhỏ các nhà vật lí ấy – gồm có Albert Einstein, Eugene Wigner, Erwin Schrödinger, Alfred Lande, Paul Dirac, và John Wheeler – những người thể hiện sự hoài nghi sâu sắc rằng một lí thuyết đặt cơ sở trên vô-định luận (indeterminism) và tính ngẫu nhiên (chance) có thể cho ta một cái nhìn chân thật về vũ trụ chung quanh ta.

Thế hệ các nhà vật lí ngày nay, bị ấn tượng với những thành quả đáng kinh ngạc của vật lí lượng tử – từ vũ khí hạt nhân đến laser-đều đi theo một con đường khác. Họ bận rộn áp dụng cơ học lượng tử vào các lĩnh vực mà những tác giả nguyên thủy của nó không bao giờ tưởng tượng ra. Chẳng hạn, Stephen Hawking đã sử dụng lí thuyết ấy để mô tả sự hình thành của các hạt cơ bản từ các lỗ đen và lập luận rằng vũ trụ thành hình từ vụ nổ trong một sự kiện cơ học-lượng tử .

Trong hơn 30 năm phản đối xu hướng vật lí hiện đại này, Bohm còn hơn cả một con ruồi trâu trên lưng ngựa. Sự phản đối của ông đối với những nền tảng của cơ học lượng tử đã dần kết hợp lại thành một sự mở rộng cho lí thuyết ấy có tầm ảnh hưởng quan trọng đến nỗi nó tương đương một cách nhìn nhận mới mẻ về thực tại. Với niềm tin rằng bản chất của vật thể không thể quy giản về các mảnh (fragment) hay hạt (particle), ông biện minh cho cách nhìn toàn thể (holistic view) về vũ trụ.  Ông yêu cầu ta cần phải học cách nhìn nhận vật chất và cuộc sống như một toàn thể (whole), lĩnh vực nhất quán mà ông gọi là trật tự ẩn (implicate order).

Hầu hết các nhà vật lí khác đều từ khước logic của Bohm mà không bận tâm dò xét nó. Một phần rắc rối là trật tự ẩn của ông đầy rẫy những nghịch lí. Một vấn đề khác là phạm vi rộng lớn của những ý tưởng của ông, mà cho đến nay chúng bao trùm cả những chủ đề phi vật lí như ý thức, xã hội, chân lí, ngôn ngữ, và sự hình thành lí thuyết khoa học.

Bohm sinh ra ở Wilkes-Barre, Pennsylvania, năm 1917, là con của một nhà buôn đồ trang trí nội thất. Ông theo học vật lí ở Đại học California cùng với J. Robert Oppenheimer. Không bằng lòng làm nhân chứng buộc tội người thầy cũ và những người bạn khác của ông trong phiên tòa McCarthy, Bohm đã rời nước Mĩ và tới giảng dạy ở Đại học Săo Paulo, Brazil.Từ nơi đó ông đến Israel, rồi đến Anh, nơi cuối cùng ông trở thành giáo sư vật lí tại Đại học Birkbeck ở London.

Có lẽ Bohm được biết đến nhiều nhất qua tác phẩm đầu tiên của ông về những tương tác của các electron trong các kim loại. Ông đã chứng minh rằng chuyển động hỗn loạn, đặc thù của electron ẩn chứa một ứng xử được tổ chức chặt chẽ và có tính hợp tác được gọi là rung động plasma (plasma oscillation). Sự gợi ý về một trật tự nằm bên dưới sự hỗn độn biểu kiến này là cốt yếu trong sự phát triển của Bohm.

Năm 1959 Bohm cùng với Yakir Ahronov đã chứng minh rằng một từ trường có thể biến đổi cách ứng xử của các electron mà không chạm đến chúng: nếu hai chùm electron di chuyển trên cả hai chiều của một không gian chứa từ trường, thì từ trường sẽ làm chậm lại các sóng của một chùm thậm chí nó không xuyên qua không gian và thực ra không chạm đến các electron. “Hiệu ứng AB” này được kiểm chứng một năm sau đó.

Continue reading