[Scientific American] Tại sao bộ não chuộng sách giấy hơn

Tác giả: Ferris Jabr

Duy Đoàn chuyển ngữ 

Một trong những đoạn phim Youtube lan truyền rất nhanh và làm người ta phấn khích nhất hồi hai năm trước, với phần mở đầu bình thường vô cùng: một bé gái một tuổi chơi với iPad, lướt ngón tay dọc ngang màn hình cảm ứng và đẩy các nhóm biểu tượng qua lại trên màn hình. Ở những cảnh tiếp theo đó, cô bé có vẻ như đang khum bàn tay lại, túm túm gì đó và ấn vào những trang giấy của mấy tờ tạp chí như thể chúng là những màn hình. Đoạn phim còn xoáy vào những cử chỉ đó bằng cách tua lại và chiếu cận cảnh vào.

Đối với cha của đứa bé, thì đoạn phim đó – A Magazine Is an iPad that Does Not Work – là bằng chứng cho sự chuyển dời thế hệ. Trong đoạn mô tả kèm theo, ông viết, “Những cuốn tạp chí giờ đây vô dụng và không thể hiểu được, đối với cư dân số (digital native)” – tức là, đối với những người đã tương tác với những công nghệ số từ lúc còn rất nhỏ, khi mà xung quanh họ lúc đó không chỉ có sách và tạp chí bằng giấy mà còn có điện thoại thông minh (smartphone), Kindle và iPad.

Cho dù bé gái đó có thực sự kì vọng những cuốn tạp chí phải hành xử như một chiếc iPad hay không, thì đoạn phim cũng làm ta chú ý đến một vấn đề vô cùng thực tế: Chính xác làm thế nào mà công nghệ chúng ta dùng để đọc có thể thay đổi cách đọc của chúng ta?

Ít nhất kể từ thập niên 1980, các nhà nghiên cứu tâm lí học, kĩ thuật máy tính, và khoa học thư viện và thông tin đã công bố hơn 100 nghiên cứu khám phá những khác biệt ở cách đọc trên sách giấy và cách đọc trên màn hình. Trước năm 1992, hầu hết các thí nghiệm đều kết luận rằng khi người ta đọc truyện và đọc báo ở màn hình thì họ đọc chậm hơn và ghi nhớ thông tin ít hơn. Tuy vậy, khi độ phân giải của màn hình của tất cả các loại thiết bị trở nên sắc nét hơn, thì một loạt những khám phá theo nhiều chiều hướng khác nhau bắt đầu xuất hiện. Những khảo sát gần đây cho thấy rằng mặc dù hầu hết mọi người đều chuộng dùng giấy hơn – đặc biệt khi họ cần tập trung trong thời gian dài – nhưng những thái độ đó đang thay đổi khi máy tính bảng và công nghệ đọc sách điện tử được cải thiện dần và khi mà chuyện đọc những văn bản số để tìm dữ kiện và để giải trí đang trở nên ngày càng phổ biến hơn. Ở Mĩ, e-book hiện nay chiếm hơn 20 phần trăm tổng số sách được bán cho công chúng.

Mặc cho loại công nghệ phổ thông thân thiện người dùng ngày càng phát triển, nhưng hầu hết các nghiên cứu được công bố kể từ đầu thập niên 1990 đều xác nhận những kết luận trước đó: giấy vẫn chiếm ưu thế so với màn hình như một phương tiện đọc sách báo. Cùng với những thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, những cuộc bỏ phiếu và những báo cáo người tiêu dùng đều chỉ ra rằng các thiết bị số ngăn người ta định vị những đoạn văn bản dài một cách hiệu quả, điều này có thể làm ngăn trở chút ít trong việc đọc hiểu. So với giấy, màn hình cũng có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên trí óc của chúng ta trong lúc đọc và làm ta khó ghi nhớ hơn những gì mình đọc được sau khi đọc xong. Bất kể họ có nhận ra điều đó hay không, người ta vẫn thường tiếp cận máy tính và máy tính bảng với tinh thần ít hướng đến chuyện học hơn so với lúc tiếp cận sách giấy. Và máy đọc sách không tái dựng lại được một số trải nghiệm theo cảm giác có được lúc đọc sách giấy, và một số người thấy bất an khi thiếu vắng những cảm nghiệm đó. Continue reading

Scientific American Mind – Giúp trẻ yêu thích toán học

 

Giúp trẻ yêu thích toán học

Tác giả: John Mighton

Hình minh hoạ của Celia Johnson

Duy Đoàn chuyển ngữ

Với kế hoạch giảng dạy thích hợp, giáo viên có thể biến những em học sinh chật vật trở thành những nhà toán học tiềm năng. Bí mật ở đây là việc hướng dẫn kĩ lưỡng các em trong chuyến phiêu lưu vào thế giới những con số.

Tôi vẫn còn nhớ rõ cái ngày cách đây 14 năm, khi đó tôi gặp được một cô bé lớp sáu cao ráo và rất chi là nhút nhát tên là Lisa, cô bé ngồi ở bàn để chuẩn bị buổi học toán đầu tiên với tôi. Hiệu trưởng của Lisa đã khuyến nghị cô bé nên tham gia chương trinh phụ đạo miễn phí sau giờ học mà tôi đã khởi xướng ở căn hộ của mình cùng với mấy người bạn nữa. Mặc dù tôi đã yêu cầu vị hiệu trưởng kiếm giúp mình những em học sinh đang chật vật với môn toán, nhưng tôi thật sự chưa sẵn sàng để gặp Lisa.

Tôi đã lên kế hoạch tăng cường sự tự tin ở Lisa bằng cách dạy cô bé phép cộng các phân số. Theo kinh nghiệm làm gia sư trước đây, tôi biết trẻ con thường hình thành những nỗi âu lo về môn toán khi lần đầu tiên tiếp cận các phân số. Bởi vì bài học của tôi liên quan đến phép tính nhân, nên tôi hỏi Lisa liệu em ấy có gặp vấn đề gì trong việc ghi nhớ bất kì bảng cửu chương nào hay không, nhưng cô bé cứ ngây ra nhìn tôi chằm chằm. Cô bé không biết phép nhân nghĩa là gì. Ngay cả khái niệm đếm cách quãng hơn một cũng là điều lạ lẫm đối với em. Em ấy sợ hãi khi tôi đặt câu hỏi và lúc tôi đế cập đến những khái niệm đơn giản nhất thì em ấy cứ luôn miệng bảo, “Em không hiểu.”

Tôi không biết phải làm gì với Lisa, thế là tôi quyết định thử xem liệu cô bé có học được cách đếm cách quãng hai con số hay không để cuối cùng cô bé có thể làm được phép nhân hai. Để làm dịu nỗi sợ của cô bé, tôi bảo rằng tôi chăc chắn em ấy đủ thông minh để học phép nhân. Tôi sợ có thể mình đưa ra lời khen giả tạo, nhưng lời khuyến khích của tôi dường như giúp em ấy tập trung được, và em ấy tiến bộ nhiều hơn tôi mong đợi. Continue reading

Scientific American Mind – Nghiên cứu khoa học về sự viết tay

 

Nghiên cứu khoa học về sự viết tay

Tác giả: Brandon Keim

Hình minh hoạ của Celia Johnson

Duy Đoàn chuyển ngữ

Tôi đang viết bài báo này bằng kiểu táo bạo, thử nghiệm ngược ngạo, dùng một kĩ thuật hiếm khi được thấy trong giới xuất bản hiện đại: viết tay, dùng bút và giấy, những dụng cụ xuất xứ từ cây cối này vốn chỉ được coi là những vật lạ kì mang tính lịch sử trong mắt giới mê công nghệ, giống như mấy tấm bản đất sét hay máy đánh chữ Remington.

Tại sao tôi lại làm điều như vậy trong thời đại bấm phím này? Một phần tôi làm vậy vì viết tay đang trở thành một hoạt động bên lề, ở ngoài xã hội và trong đời tôi. Chúng ta gõ chữ nhiều hơn bao giờ hết, và không phải điều gì bất thường khi ta gặp những người hoàn toàn ngưng dùng tay để viết, chữ viết của họ khô quắt như những chi cụt còn để lại vết tích.

Tôi luôn có cảm giác rằng suy nghĩ của tôi sẽ khác – cân nhắc hơn, phong phú hơn – khi thông qua bàn tay thay vì cỗ máy. Mấy người tôi gặp thường kể những câu chuyện giống vậy. Họ vẫn dùng bàn phím để chuyển tải phần lớn chữ nghĩa, nhưng vẫn dùng tay lập danh sách, ghi chú, phác thảo các đoạn văn hay sắp xếp ý nghĩa. Họ cũng cảm thấy viết tay liên quan đến trí óc theo một cách khác.

Chỉ cảm giác thôi chắc chắn thiếu tính khoa học. Nó có thể là ảo tưởng hoặc bị nhiều nhân tố làm xáo trộn, chẳng hạn khó khăn khi kiểm tra e-mail trên giấy, vốn không có liên quan gì đến những thuộc tính tri nhận của viết tay. Các nhà hoài nghi có thể khẳng định rằng trẻ em thời hiện đại, khi trải nghiệm bàn phím và màn hình, sẽ vận dụng được các thiết bị đó để có được kết quả tương đương. Chừng nào mà ta còn viết, thì chuyện đó ảnh hưởng ra sao có quan trọng gì?

Minh triết theo truyền thống cũng theo hướng vậy. Mọi cuộc chuyển dời công nghệ quan trọng ngàn năm có một đều gây ra mối bận tâm đau đầu: chúng ta lo lắng về chứng nghiện Internet, tình bạn trở nên tầm thường hơn do các phương tiện truyền thông xã hội, máy đọc sách điện tử thay thế sách giấy, màn hình điện tử sẽ biến bọn trẻ thành những kẻ nghiện ngập thế giới mô phỏng. Tuy vậy ngoại trừ cuốn The Missing Ink đáng yêu của Philip Hensher có đi dò xét phần lịch sử văn hoá của lối viết tay, thì chuyện kĩ thuật này mất dần, trọng tâm cho sự trỗi dậy của nền văn minh, phần lớn không được người đời lưu ý đến. Continue reading

Scientific American Mind – Đánh giá các phương pháp học tập

Scientific American Mind

Đánh giá các phương pháp học tập

Các tác giả: John Dunlosky, Katherine A. Rawson, Elizabeth J. Marsh, Mitchell J. Nathan & Daniel T. Willingham

Hình minh hoạ của Celia Johnson

Duy Đoàn chuyển ngữ

Nhìn chung giáo dục thường tập trung vào nội dung học tập, chẳng hạn đại số, các nguyên tố trong bảng tuần hoàn hay cách chia động từ. Nhưng tìm hiểu cách học cũng là điều quan trọng không kém, đi kèm nhiều lợi ích lâu dài. Điều đó có thể dạy bạn cách thu thập kiến thức nhanh và hiệu quả hơn cũng như cho phép bạn giữ được thông tin suốt nhiều năm thay vì trong nhiều ngày.

Hơn 100 năm nay, những nhà tâm lí học tri nhận và giáo dục đã phát triển và đánh giá vô số kĩ thuật, từ việc đọc lại tài liệu cho đến tóm tắt lại để tự kiểm tra bản thân. Một số chiến lược phổ biến rõ ràng có cải thiện thành tích của học viên, trong khi số khác lại tốn thời gian và không hiệu quả. Tuy vậy những thông tin này thường không được đưa vào áp dụng ở lớp học. Các giáo viên ngày nay không được cho biết những kĩ thuật học tập nào được các chứng cứ thực nghiệm hậu thuẫn, còn học viên thì không được dạy cách dùng những kĩ thuật đó sao cho hiệu quả. Thực tế, hai cách trợ giúp học tập mà các học viên đang dựa vào nhiều nhất lại không hiệu quả. Một trong hai cách này thậm chí còn làm suy giảm thành tích học tập.

Một nguyên do tiềm tàng chính là việc có quá nhiều nghiên cứu khiến chúng ta choáng ngợp, làm cho các nhà giáo dục và các học viên khó xác định những phương cách học tập thực tiễn và ích lợi nhất. Để đáp ứng thách thức này, chúng tôi điểm lại hơn 700 bài báo khoa học bàn về 10 kĩ thuật học tập thường được sử dụng nhất. Chúng tôi tập trung vào những chiến lược trông có vẻ dễ sử dụng và đạt mức hiệu quả rộng khắp. Chúng tôi cũng có cái nhìn sát sao hơn về một số phương pháp các học viên thường dùng.

Để được chúng tôi đưa ra giới thiệu ở đây, kĩ thuật đó phải hữu ích ở nhiều hoàn cảnh học tập khác nhau, chẳng hạn lúc học viên học một mình hay học chung nhóm. Nó phải trợ giúp học viên ở nhiều lứa tuổi khác nhau, có những năng lực khác nhau và những cấp độ hiểu biết ban đầu khác nhau – và nó phải được kiểm tra trong lớp học hoặc trong tình huống ngoài thế giới thực. Các học viên có thể dùng phương pháp đó để tinh thông nhiều môn khác nhau, và việc học tập của họ phải được hưởng lợi từ phương pháp đó bất kể trải qua loại hình kiểm tra gì. Những cách tiếp cận tốt nhất cũng phải dẫn đến những cải thiện dài lâu về mặt kiến thức và khả năng lĩnh hội.

Bằng cách dùng những tiêu chuẩn này, chúng tôi định ra hai phương pháp tối ưu rõ ràng. Chúng tạo ra những kết quả vững chắc, ổn định và thích hợp cho nhiều tình huống. Chúng tôi cũng đưa ra ba phương pháp khác để dự phòng những tình huống khác, và năm phương pháp – trong đó có hai cách trợ giúp học tập phổ biến – không được chúng tôi khuyến nghị, vì chúng chỉ hữu ích trong một số hoàn cảnh hạn chế nhất định hoặc vì chưa đủ chứng cứ để có thể đánh giá chúng cao hơn. Chúng tôi khuyến khích các nhà nghiên cứu khảo sát sâu thêm một số kĩ thuật chưa được kiểm nghiệm, nhưng học viên và giáo viên nên cẩn trọng khi dựa vào những kĩ thuật đó.

Những kĩ thuật vàng

1. Tự kiểm tra (self-testing)

Ra bài kiểm tra chính bản thân mình sẽ giúp đạt điểm cao  Continue reading

Ferric C. Fang & Arturo Casadevall – Tại sao ta lại gian lận

 

Ferric C. Fang & Arturo Casadevall

Tại sao ta lại gian lận

Duy Đoàn chuyển ngữ

Tay đua xe đạp Lance Armstrong đã lên tiếng xin lỗi vì dùng chất kích thích cải thiện phong độ để giành được bảy danh hiệu Tour de France. Anh ta cho việc gian lận này là do lòng kiên quyết “chiến thắng bằng mọi giá”. Nhà tâm lí học Marc Hauser tại trường Harvard University, người từng viết bài báo nhan đề “Costs of Deception: Cheaters Are Purnished…” hiện đang thất nghiệp sau công việc ở U.S. Office of Research Integrity (Sở liêm chính trong nghiên cứu tại Hoa-kì), kết luận rằng ông đã “nguỵ tạo dữ liệu, chi phối kết quả ở nhiều thí nghiệm khác nhau, và mô tả cách thực hiện những nghiên cứu theo những phương cách thực sự thiếu chính xác.” Mười sáu ngân hàng đã đồng ý trả tiền phạt hoặc đang bị điều tra vụ thao túng Libor, một dạng lãi suất mà các ngân hàng có thể dùng để vay tiền từ những ngân hàng khác, và đây được coi là vụ lừa đảo tài chính lớn nhất trong lịch sử thị trường.

Những trường hợp này chỉ là một phần trong dòng chảy dường như bất tận các vụ bê bối gian lận xuất hiện trên báo đài, gây tác động đối với thể thao, khoa học, giáo dục, tài chính và những địa hạt khác. Mặc dù thật dễ chịu khi nghĩ rằng hầu hết mọi người về căn bản đều thành thật, nhưng việc gian lận – được định nghĩa là hành vi thiếu trung thực nhằm đạt lợi ích nào đó – thực sự là hiện tượng phổ biến đáng kinh ngạc. Theo khảo sát năm 1997, giáo sư ngành quản lí Donald McCabe thuộc trường Rutgers University và Linda da Klebe Treviño, giáo sư về hành vi tổ chức ở trường Pennsylvania State University, đã tiết lộ rằng khoảng ba phần tư trong só 1,800 sinh viên ở chín trường đại học bang đã thừa nhận gian lận trong thi cử hoặc trong những bài luận trên lớp. Năm 2005, nhà xã hội học Brian Martinson thuộc Health Partners Research Foundation ở Bloomington, Minnesotta và những đồng nghiệp của ông đã báo cáo rằng một phần ba số khoa học gia đã thú nhận có can dự vào những công việc nghiên cứu khả nghi trong suốt ba năm qua.

Gian lận không giới hạn ở con người; nó còn được ghi nhận trong khắp thế giới sự sống, ở bất kì nơi đâu mà có sự cạnh tranh giành lấy những nguồn tài nguyên hạn chế. Mặc dù đâu đâu cũng có, nhưng hành vi gian lận có thể gây tổn hại rất nhiều cho cá nhân và xã hội. Những kẻ gian lận bị bêu xấu và có thể mất công ăn việc làm. Công việc lừa đảo làm lãng phí nguồn tài nguyên. Những người theo luật lại bị tước đoạt phần thưởng mà họ xứng đáng có. Còn có những tổn thất khác ngoài ý muốn. Những đồng đội của Armstrong bị buộc phải làm theo kế hoạch dùng thuốc kích thích và bị đe doạ khi họ cố vạch trần sự thật. Những nghiên cứu khoa học thiếu trung thực có thể làm những nhà nghiên cứu khác lầm đường lạc lối, có thể dẫn đến những chính sách công sai lầm và có thể gây hại cho bệnh nhân khi những quyết định lâm sàng lại dựa trên nguồn thông tin sai sót. Continue reading

Michael F. Hammer – Những hỗn hợp nhân chủng

 

Michael F. Hammer

Những hỗn hợp nhân chủng

Duy Đoàn chuyển ngữ

 

Các phân tích DNA phát hiện rằng chủng Homo sapiens sơ kì đã giao phối với các chủng người khác và còn gợi ý rằng việc lai giống như vậy đóng vai trò then chốt trong việc hình thành nên loài người chúng ta.

Thật khó hình dung ngày nay, ngoại trừ đối với phần lớn lịch sử tiến hoá loài người, có nhiều chủng giống người cùng san sẻ trái đất này. Khoảng 40,000 năm trước, Homo sapiens đã sống cùng với một số họ hàng khác với mình, bao gồm chủng Neandertal và chủng Homo floresiensis nhỏ bé. Trong nhiều thập niên qua, các nhà khoa học đã tranh cãi về việc chính xác làm thế nào mà Homo sapiens là cội nguồn và trở thành loài người chung cuộc hiện tại. Phần lớn nhờ vào các nghiên cứu di truyền hồi thập niên 1980 mà xuất hiện một lí thuyết với vai trò tiên phong rõ ràng. Theo quan điểm này, loài người hiện đại xét theo giải phẫu học phát sinh từ châu Phi và lan toả ra khắp phần còn lại của Cựu Thế giới (Old World), hoàn toàn thay thế các nhóm người tối cổ hiện hữu vào thời điểm đó. Dạng người mới này chính xác làm thế nào trở thành chủng người chung cuộc ngày nay trên trái đất vẫn còn là điều bí ẩn. Có lẽ những kẻ xâm lược ngày ấy đã loại bỏ hết những kẻ bản địa họ tiếp cận được, hoặc lấn át những kẻ lạ mặt ấy ngay trên chính đất đai của họ, hoặc chỉ đơn giản là sinh sản ở mức cao hơn. Dẫu cho nó xảy ra thế nào, thì những kẻ mới đến dường như đã loại trừ hết mà không giao phối với những đối thủ của mình.

Mô hình Người Phi Thay thế (African Replacement) này, như người ta thường gọi, vô cùng quan trọng khi giữ vai trò làm hệ hình cho nguồn gốc con người hiện đại trong 25 năm qua. Tuy thế càng lúc càng có chứng cứ chỉ ra sai lầm của hệ hình này. Những phát triển gần đây trong công nghệ sắp xếp chuỗi DNA đã cho phép các nhà nghiên cứu gia tăng đáng kể bộ sưu tập dữ liệu từ người sống cũng như từ các nhóm người tuyệt chủng. Các phân tích dựa trên nguồn dữ liệu này cùng với những công cụ tính toán ngày càng phức tạp đã chỉ ra rằng câu chuyện lịch sử loài người chúng ta không đơn giản như nhiều chuyên gia vẫn tưởng. Có vẻ con người ngày nay mang chuỗi DNA thừa hưởng từ chủng Neandertal và các chủng người tối cổ khác, điều này hé lộ cho biết rằng chủng Homo sapiens sơ kì đã giao phối với các chủng khác này và sinh ra con cái khoẻ mạnh vốn có thể truyền cái di sản gene này cho hàng ngàn thế hệ sau này. Ngoài việc lật đổ sự hiểu biết thông thường về nguồn gốc của chúng ta, thì các khám phá này còn làm cho những nghiên cứu mới đi theo hướng tìm hiểu việc lai giống này diễn ra mạnh mẽ ra sao, nó xảy ra ở những khu vực địa lí nào và tìm hiểu xem liệu con người hiện đại có biểu lộ ra những lợi thế do nhận được các đóng góp gene từ những họ hàng tiền sử của ta hay không.  Continue reading

Làm thế nào cộng đồng trừng phạt hành vi chống xã hội một cách hiệu quả

Một nghiên cứu mới đã đưa ra cái nhìn thấu đáo vào chuyện làm thế nào một nhóm người xử lí được các nan đề xã hội và làm sao để trừng phạt những kẻ có hành vi chống xã hội một cách hiệu quả.

Hàng xóm chơi nhạc ồn ào là một ví dụ mà ở đó một nan đề xã hội có thể nảy sinh ra, về chuyện ai sẽ là người xử lí kẻ sai quấy kia nếu hành vi đó tác động đến cả nhóm người. Nếu ai cũng ngồi đó mong đợi người khác xử phạt kẻ sai quấy kia, thì tiếng nhạc ồn ào vẫn cứ kéo dài. Tuy nhiên, theo nghiên cứu do trường University of Oxford và trường ETH Zurich tiến hành, thì các nhà nghiên cứu đã hé lộ cho biết rằng khi một nhóm có thể nhận diện ra thành viên nổi trội nhất trong số họ, thì có thể dẫn đến một thoả thuận ngầm hiểu về người sẽ làm chuyện trừng phạt kẻ sai quấy kia.  Continue reading

Động vật giúp trẻ tự kỉ cải thiện hành vi giao lưu tích cực

Sự hiện diện của động vật có thể giúp trẻ tự kỉ gia tăng đáng kể những hành vi giao lưu tích cực, kết quả rút ra từ cuộc nghiên cứu công bố ngày 20/2/2013 trên tập san PLOS ONE, được tiến hành bởi Marguerite E. O’Haire và các đồng nghiệp ở trường University of Queensland, Úc.

Những nhà nghiên cứu đã đối chiếu cách thức những đứa trẻ tự kỉ từ 5-13 tuổi tương tác với người lớn với những đứa trẻ phát triển bình thường đồng trang lứa ở hai trường hợp: khi có mặt hai con chuột lang và trường hợp còn lại là chỉ có đồ chơi. Họ phát hiện rằng khi có mặt loài vật thì trẻ tự kỉ biểu hiện ra được nhiều hành vi giao lưu hơn, chẳng hạn như nói chuyện, nhìn vào mặt người khác, và giao tiếp đụng chạm với nhau. Trẻ tự kỉ còn cho thấy khi có mặt loài vật thì chúng dễ đón nhận những lời tiếp chuyện từ mấy đứa trẻ khác hơn so với trường hợp chỉ có đồ chơi. Sự hiện diện của loài vật còn giúp trẻ tự kỉ cười nhiều hơn và bớt nhăn nhó khó chịu, bớt rên rỉ và khóc lóc hơn so với trường hợp trẻ chơi với đồ chơi.  Continue reading

Rodrigo Quian Quiroga, Itzhak Fried & Christof Koch – Tế bào tổ mẫu trong não bộ

Rodrigo Quian Quiroga, Itzhak Fried & Christof Koch

Tế bào tổ mẫu trong não bộ

Duy Đoàn chuyển ngữ

Có lần nhà giải phẫu thần kinh thông thái người Nga Akakhi Akakhievitch có khách hàng là một anh chàng muốn quên đi người mẹ độc đoán, quá quắt của mình.

Akakhievitch hào hứng giúp đỡ, mở toang bộ não bệnh nhân ra, và dần dần loại bỏ vài ngàn neuron, mỗi neuron trong số này đều có liên quan đến ý niệm người mẹ của bệnh nhân đó. Khi bệnh nhân tỉnh dậy sau cơn mê, anh ta mất hết toàn bộ khái niệm về mẹ mình. Toàn bộ kí ức về bà ta, tốt lẫn xấu, đều biến mất. Mừng rỡ trước thành công đó, Akakhievitch chuyển hướng sang nỗ lực kế tiếp – tìm kiếm các tế bào liên kết với phần kí ức của “người bà.”

Câu chuyện đó dĩ nhiên là hư cấu. Nhà khoa học thần kinh quá cố Jerry Lettvin (một nhân vật có thật ngoài đời) đã kể câu chuyện đó cho sinh viên ở Học viện Công nghệ Massachusetts hồi năm 1969 nhằm minh hoạ cho một ý tưởng đầy khiêu khích cho rằng có một lượng tầm khoảng 18,000 neuron có thể hình thành nên cơ sở cho bất kì dạng kinh nghiệm ý thức, cho bất kì loại tư duy hoặc kí ức đặc thù nào về người thân, về bất kì một người nào khác hoặc bất kì món đồ nào mà ta chợt bắt gặp. Lettvin chưa bao giờ chứng minh hoặc bác bỏ giả thuyết táo bạo đó, và trong hơn 40 năm qua các nhà khoa học đã tranh luận, hầu hết là đùa cợt, về ý tưởng “các tế bào tổ mẫu (grandmother cells)”.  Continue reading

Evangelia G. Chrysikou – Óc sáng tạo trong công việc

Evangelia G. Chrysikou

Óc sáng tạo trong công việc

Duy Đoàn chuyển ngữ

Vào ngày 4/7, đó là một buổi cuối tuần năm 1994, trong lúc lái chiếc Chevy Blazer đời 1988 đi cùng với vợ, một kĩ sư máy tính tên là Jeff Bezos đã đặt nền tảng cho cuộc cách mạng lĩnh vực bán lẻ. Hồi đó thì Internet chỉ là công cụ dành cho người trong cuộc, phần lớn hoạt động còn giới hạn trong phạm vi chính phủ và các tổ chức học thuật. Nhưng sau nhiều tháng quan sát kĩ càng về công dụng của Internet, Bezos đã tiên liệu được mạng lưới này sẽ bành trướng rất khủng khiếp và có thể len vào đời sống hàng ngày của mọi người. Ông phác thảo ngay trên xe bản kế hoạch kinh doanh cho một dự án sẽ hiện thực hoá hướng nhìn đó: ông hiểu Internet có thể làm tăng mức hiệu quả của hệ thống buôn bán qua thư từ, và bắt đầu bằng việc bán sách.

Khi thực hiện bước đi táo bạo ấy, Bezos và vợ, Mackenzie, đã rời bỏ công việc lương cao ở New York về mảng tài chính để tạo dựng một nhà sách bán qua Internet đặt trụ sở tại Seattle. Họ gọi nó là “Amazon”, đặt tên theo con sông Nam-mĩ dài bất tận với nhiều nhánh khác nhau. Sau vài tháng thử nghiệm và không quảng cáo chút gì, công ti bắt đầu có được tiền doanh thu $20,000 mỗi tuần. Chỉ trong vài năm, Amazon trị giá hàng tỉ USD. Bezos đã thay đổi mãi mãi cách thức mua hàng của mọi người và tạo nên ảnh hưởng trường tồn trong giới kinh doanh.  Continue reading